Phần ba của The Hunger Games sẽ ra rạp vào tháng 11 năm nay.

Hội chứng phần tiếp theo & căn bệnh rối loạn thương hiệu

House Head of Photography
Phần ba của The Hunger Games sẽ ra rạp vào tháng 11 năm nay.
Phần ba của The Hunger Games sẽ ra rạp vào tháng 11 năm nay.

Tôi rất ít khi đọc tiểu thuyết cho thanh thiếu niên trẻ (young adult novel) nhưng thật lòng mà nói thì lại khá thích bộ truyện này của Suzanne Collins, hay nói đúng hơn đây là young adult novel duy nhất tôi đọc thì phải. Phần I (The Hunger Games) và phần II (Catching Fire) là hấp dẫn và dễ đọc nhất, phần III (Mocking Jay) hơi kém hơn một chút, nhưng lại có một sự trầm uất, nặng nề và nghiêm túc khác hẳn hai phần trước.

Truyện/Phim lấy bối cảnh trong một tương lai không xa khi Bắc Mỹ đã sụp đổ, suy yếu do hạn hán, nạn đói, hỏa hoạn, và chiến tranh, được thay thế bằng Panem, một đất nước bị chia cắt thành Capitol quản lý và 12 quận (thực ra là 13 nhưng Quận 13 đã bị xoá sổ bằng bom hạt nhân do chống lại Capitol). Mỗi năm, hai đại diện trẻ vị thành niên (một gái một trai từ độ tuổi 12 đến 18) từ mỗi quận được lựa chọn bằng cách bốc thăm để tham gia Trò chơi Đói khát – The Hunger Games. Một phần là để giải trí, một phần để đe dọa các quận phải khuất phục, không được quên quyền lực của Capitol. Các trò chơi được truyền hình và phát sóng trên toàn Panem, trong đó 24 người tham gia bị buộc phải loại bỏ các đối thủ cạnh tranh của họ, chỉ có một kẻ chiến thắng duy nhất.

Mọi thứ bắt đầu từ một trò chơi và kết thúc bằng một cuộc cách mạng. Capitol vô cùng giận dữ, và Capitol muốn thêm một cuộc trả thù đẫm máu… Phần II, phần III, phần IV đã, đang và sẽ nối tiếp cái cốt truyện như thế. Tôi vẫn nhớ hồi tháng Ba năm 2012 đi xem phần I với một sự háo hức kinh khủng sau mấy tháng chờ đợi (vì Trailer phần I quá hay) để rồi cuối cùng nhận được một sự thất vọng lớn. Phần II cũng chỉ thường thường như vậy, miễn cưỡng thì cũng có thể nói là “hay” bằng phần trước.

Jennifer Lawrence là một tài năng nở sớm với một hai đề cử Oscar và một lần chiến thắng cho hạng mục "Nữ chính xuất sắc nhất". Nhưng tôi có cảm tưởng cô đang mắc kẹt một cách đáng ngại trong thương hiệu "The Hunger Games".
Jennifer Lawrence là một tài năng nở sớm với một ba đề cử Oscar và một lần chiến thắng cho hạng mục “Nữ chính xuất sắc nhất”. Nhưng tôi có cảm tưởng cô đang mắc kẹt một cách đáng ngại trong thương hiệu “The Hunger Games”.

Chỉ có một điều khó hiểu băn khoăn: hai phần cuối chắc chắn sẽ thành công về mặt doanh thu, nhưng tại sao cả thương hiệu này lại thất bại về mặt chất lượng nội dung? Vì xét đến từng yếu tố một thì tưởng chừng như phim chẳng thiếu một điều gì:

  • Kinh phí 140 triệu đô là quá đủ cho một bộ phim như này.
  • Phim chuyển thể từ một bộ truyện khá hấp dẫn và có tiềm năng, dễ chuyển thể.
  • Hai đạo diễn của hai phần  trước không phải là một lựa chọn quá tệ.
  • Biên kịch Michael Arndt và Simon Beaufoy là những cái tên sáng giá.
  • Nữ chính Jennifer Lawrence một lần thắng Oscar, một lần đề cử cho giải “Diễn viên nữ xuất sắc nhất”.
  • Dàn diễn viên phụ chắc tay: Woody Harrelson (Haymitch), Donald Sutherland (tổng thống Snow), Elizabeth Banks (Effie), Stanley Tucci (Caesar). Điều đặc biệt là họ đều đọc truyện trước khi nhận được vai diễn và khá thích bộ truyện này. Có lẽ nhờ vậy nên hóa thân vào nhân vật rất tốt, từ phần I đến phần II này – đúng như những gì ta có thể tưởng tượng khi đọc truyện.
  • Âm nhạc: James Newton Howard.
Bản đồ Panem.
Bản đồ Panem.

Điệp khúc “Hay hơn phần trước” không đủ là một tiêu chí giúp một bộ phim hay hơn
Nhưng rồi bất chấp những tiềm năng kể trên, phần II vẫn kết thúc trong nhạt nhòa. Phải chăng vấn đề nằm ở chính bản thân Hollywood? Những sản phẩm thương mại tốt nhất của Hollywood vẫn không đủ tốt nữa? Như tôi đã phân tích ở một số bài viết khác thì:

“Hiện thực kinh doanh là thế: đồng tiền là trên hết. Khi xem xét đến việc đầu tư cho một dự án, hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI) bao giờ cũng đè bẹp sự sáng tạo hoặc việc cân nhắc đến trải nghiệm của khán giả. Mỗi một ngành công nghiệp đều có những mô hình thành công đã được thừa nhận – thứ mà nhiều người trong chúng ta, những người luôn hối thúc các hãng phim thoát khỏi vùng an toàn của họ và vượt qua sự trì trệ, gọi là status-quo (thứ chiến lược kinh doanh an toàn đang giúp những nhà phát hành phim giữ vững vị trí như hiện tại). Việc hệ số thu nhập trên đầu tư là một nhân tố then chốt (và thường là nhân tố trung tâm) trong các quyết định đầu tư, lại không phải là vấn đề ở đây. Vấn đề là ở cái niềm tin mù quáng vào “những thứ chắc chắn thành công”. Hay chính là những mô hình đã được thừa nhận. Phần tiếp theo ngu si của một phim bom tấn hoặc một kịch bản chuyển thể rập khuôn từ truyện tranh, tiểu thuyết thường đi kèm với những hợp đồng kinh doanh sản phẩm ăn theo. Chính là nó kèm theo các chi phí liên quan đóng vai trò sự sống còn mang tính lâu dài. Hay nói một cách suy rộng ra đó là lợi nhuận lâu dài.

Đánh giá của các phần tiếp theo (sequel) cho thấy đa phần chúng đều không vượt qua được cái bóng của phần trước đó.
Đánh giá của các phần tiếp theo (sequel) cho thấy đa phần chúng đều không vượt qua được cái bóng của phần trước đó.

Coi ngành công nghiệp điện ảnh là nền ta có thể giải thích được tại sao không một hãng phim, đạo diễn hoặc diễn viên nào có thể thành công nếu như họ chỉ tập trung vào sản xuất những phim nghệ thuật mang tính đột phá hoặc chỉ sản xuất những phim trông chờ vào mấy thương hiệu (franchise) nhạt nhẽo. Muốn thành công trong ngành công nghiệp điện ảnh (cũng như bao ngành công nghiệp khác), ta phải biết cân bằng cả hai.

Một khi những thương hiệu ấy không đủ hấp dẫn khán giả nữa thì sao? Đừng lo, Hollywood trong lịch sử 100 năm qua còn có nhiều giai đoạn khó khăn hơn nhiều nhưng họ vẫn sống sót, vẫn là gã khổng lồ đứng đầu trong việc xuất khẩu phim ra thế giới. Không phải ngẫu nhiên hay may mắn mà tất cả đều nhờ vào những cái đầu khôn ngoan cả đấy. Phim chán hả? Được, họ sẽ làm sequel (phần tiếp theo, chúng ta sẽ nhận được một lời hứa hẹn rằng phần này phim sẽ hay hơn phần trước, kinh phí cao hơn, kỹ xảo đẹp hơn). Còn nếu vẫn dở thì remake (làm lại với nội dung giống hệt các bản phim cũ), reboot (làm lại nhưng không có liên quan về nội dung đến các phim sẵn có), spin-off (nhân vật chính, thế giới chính không đủ hấp dẫn thì ta chuyển qua làm về nhân vật phụ, thế giới phụ). Thế giới spin-off cũng không cứu nổi nữa? Lại đi tìm thương hiệu mới khác hấp dẫn hơn thôi. Kiếm tiền quả không khó.

Tất nhiên tư duy đó không có gì là sai trái cả, dù là trong giới điện ảnh, phim truyền hình, sách, âm nhạc, trò chơi điện tử, xe hơi, quần áo hay là đồ điện tử. Không nhất thiết bộ phim nào cũng phải làm những người trẻ thay đổi thế giới quan hoặc khiến ta thấy đặc biệt hay. Ngay cả những phần tiếp theo ngu si với những kiểu hài chỉ “hơi” thư giãn cũng có chỗ đứng của nó, đặc biệt là nếu dựa theo vai trò của nó trong vòng quay thu lợi nhuận – nó tạo điều kiện cho các dự án mang tính thử nghiệm: thành công đem lại lợi nhuận lớn, lợi nhuận bơm đầy ngân sách và tạo điều kiện cho những sản phẩm và dự án mang tính thử nghiệm được chi tiền. Sequel, franchise chẳng phải chuyện gì mới mẻ gây sốc. Các nhà làm phim xưa nay họ vẫn làm suốt. Nhưng vấn đề mà chúng ta phải đối mặt là: sao càng ngày càng ít các dự án nghệ thuật mang tính thử nghiệm vậy? Tiền lãi từ các phim bom tấn đi đâu hết rồi? Có lẽ khán giả dạo này cũng quá mệt mỏi với “bom” rồi nên họ ít đến rạp hơn.

Các sản phẩm từ comic hay chuyển thể tràn ngập các bảng doanh thu phim hè từ năm, sáu năm nay.
Các sản phẩm từ comic hay chuyển thể tràn ngập các bảng doanh thu phim hè từ năm, sáu năm nay.

Đã đến lúc chúng ta quay lại với câu hỏi: Tại sao thương hiệu The Hunger Games lại thất bại về mặt chất lượng nội dung?
Câu trả lời đơn giản: The Hunger Games thất bại về mặt nội dung vì nó mang đầy đủ tính chất của một phim thuần bom tấn (blockbuster) của Hollywood.

1/ Jennifer Lawrence là một diễn viên trẻ, đẹp và tài năng. Ba lần đề cử (Winter’s Bone, Silver Lining Playbook, American Hustle), một lần thắng (Silver Lining Playbook) Oscar không phải chỉ nhờ may mắn mà là cả tài năng, nỗ lực làm việc chăm chỉ, thông minh và sắc đẹp. Nhưng như Jennifer thừa nhận, cô là người của những bộ phim độc lập (indie) chứ không phải của thế giới Hunger Games, thế giới của những phim bom tấn, của ngôi sao thảm đỏ. Ngay cả khi lúc nhận The Hunger Games Jennifer cũng đã cân nhắc rất nhiều và thực tế là cô đã sai lầm. Jennifer tạo cho người ta cái cảm giác lạc lõng, không phải chính mình giữa bộ phim, đang lên gân gắng sức tự ép buộc làm một điều mình không thích.

2/ Giống như một mẫu nước hoa, sự hoàn hảo của một tác phẩm điện ảnh dựa trên ba nốt, ba yếu tố hòa quyện vào nhau một cách đồng điệu và hài hòa nhất: base note (nốt trầm), head note (nốt cao) và heart note (nốt trung).

– Base note: cách bộ phim được biên tập, chỉnh sửa, cắt ghép ở giai đoạn hậu kì. Đây là cái nền để tôn lên hai nốt nhạc kia vì vậy nó rất quan trọng, nền không vững thì nhà xây đẹp cỡ nào cũng vô dụng.

– Head note: kịch bản, biên kịch của bộ phim. Đây là yếu tố gần như tối thượng ta quyết định có nên xem một bộ phim hay không vì nó là ấn tượng đầu tiên, là trông mặt bắt hình dong. Vì vậy nên nhiều khi bản thân ta cũng gặp phải những cú lừa ngoạn mục.

– Heart note: là tài năng của đạo diễn. Đúng như tên gọi thì nó là trái tim, là linh hồn của bộ phim. Một đạo diễn tài ba có thể che bớt chỗ dở của kịch bản và đưa một kịch bản bình thường lên một tầm cao hoàn toàn mới. Hai trong ba yếu tố trên của Catching Fire đều chỉ ở mức trung bình: biên kịch và biên tập. Sức mạnh của những độc giả hâm mộ The Hunger Games thật đáng sợ khi có thể khiến những người làm phim phải chiều mình hết lòng. Họ muốn từng tiểu tiết, tình huống, sự phát triển quan hệ nhân vật phải được lên hình – không quan trọng là nó kéo dài một giây hay năm phút. Nhưng than ôi, tiểu thuyết và điện ảnh là hai phương tiện hoàn toàn khác nhau và có cách tiếp cận khán giả/độc giả khác nhau. Đảm bảo tính chân thật và chi tiết của tác phẩm với kéo dài bộ phim ra quá mức cần thiết là một ranh giới hết sức mong manh và Catching Fire tiếc thay đã nằm bên lằn ranh bên kia. Những thứ cần đào sâu hơn, những phân cảnh xứng đáng nhiều thời gian lại trôi qua quá nhanh để phim có thời gian cho những ngóc ngách không cần thiết khác của truyện. Khó có thể tin rằng Arndt và Beaufoy lại làm dở đến vậy, lý giải khả thi duy nhất đó là sức ép của hãng phim và Suzanne Collins để đảm bảo bộ phim theo đúng nguyên tác hòng chiều lòng những người hâm mộ truyện. Bình thường nếu phần dựng phim được làm xuất sắc nó có thể che bớt khuyết điểm của đạo diễn và kịch bản nhưng thật sự dựng phim của Catching Fire còn tệ hơn cả The Hunger Games nữa. Hãy nhìn sang Cloud Atlas: cũng là một tác phẩm chuyển thể – thậm chí truyện còn dài hơn với 500 trang dày đặc nội dung đa tầng đa nghĩa, sáu câu chuyện và ta có gần ba tiếng phim. Tính ra mỗi câu chuyện chưa được 30 phút. Vậy mà phim có mở đầu, có cao trào, có kết thúc, có xây dựng phát triển nhân vật và hơn nữa còn là liên kết giữa sáu câu chuyện. Phim ảnh giống như âm nhạc, yếu tố quyết định ở đây là “in time” – cả bộ phim phải duy trì được đúng tốc độ và nhịp điệu, tốc độ đương nhiên là có lúc khác nhau nhưng nhịp độ tuyệt đối không được lệch lạc. Catching Fire như một kẻ nghiệp dư cố chơi một bản nhạc quá sức, hắn ta không thể kiểm soát và điều tiết được nhịp độ của mình, lúc đầu chậm thật chậm càng về sau càng lệch lạc và gấp gáp để cố theo đuổi các nốt đánh lỡ và kết quả là đánh quá nhanh, nốt nào cũng dở dang.

551926_10151221266341321_1082566640_n
So sánh mười phim Hollywood có doanh thu cao nhất trong vòng 30 năm qua. Màu xanh là nguyên bản, màu xám là chuyển thể và màu hồng là phần tiếp theo.

3/ Như nhà phê bình phim Roger Ebert đã nói:
“Không bộ phim hay nào là quá dài, và không bộ phim dở nào là đủ ngắn.”
Hollywood đang quay trở lại với xu hướng phim dài (từ hai đến ba tiếng) như ngày trước, không chỉ riêng các phim “nghệ thuật” đem đi tranh giải Oscar mà ngay cả các phim bom tấn. Tất nhiên là chẳng có vấn đề gì sai với chuyện làm phim dài cả nếu nó thực sự cần thiết. Việc khán giả ra rạp ít dần làm các hãng phim nghĩ rằng: nếu phim dài hơn, mãn nhãn hơn thì người ta sẽ cảm thấy thỏa mãn với tiền vé bỏ ra và đỡ phàn nàn vì cho dù phim có dở thì ít nhất cũng được cái dài xem cho đã mắt!

146 phút của Catching Fire bị chia thành hai đoạn lớn mà gần như không có liên kết về mặt kỹ thuật hay cảm xúc: 90 phút tâm lý, xây dựng bản lề cho phần ba một cách dài lê thê và 46 phút hành động không nghỉ. Vì quá theo sát mạch tuyến tính của truyện nên thật sự nhịp phim rất có vấn đề, cộng thêm độ dài khiến nó rất dễ gây nản lòng cho người xem.

4/ Catching Fire chỉ là phần hai của một Saga bốn tập (The Hunger Games, Catching Fire, Mockingjay Pt. 1, Mockingjay Pt. 2)
Hollywood và các hãng phim nhồi nhét vào khán giả cái chữ PHẦN HAI, viết hoa, tô đậm. Không phải phần đầu, không phải phần cuối, càng không phải một bộ phim một phần duy nhất. Đây chính là vấn đề lớn nhất của bộ phim và của tư duy Hollywood. Là một bộ phim có nhiều phần (trilogy, saga…) không có nghĩa là miễn cho nó khỏi những nhiệm vụ quan trọng của một tác phẩm điện ảnh: cách mở đầu, cách đẩy phim đến cao trào và cách kết thúc. Đừng lấy lý do phim còn hai phần nữa theo sau, đừng lấy lý do truyện kết thúc dở dang đến đó để giải thích cho cách làm phim lười biếng của mình. Vì quan trọng không phải là phim kết thúc ở đoạn nào mà là kết thúc bằng cách nào. Khán giả muốn đi xem Catching Fire chứ không phải một phiên bản điện ảnh của truyện “Catching Fire”.Từ phần đầu The Hunger Games cho đến Catching Fire ta đều thấy không có phát triển nhân vật của các ứng viên khác (đây cũng là điều phổ biến ở các bộ phim nhiều phần của Hollywood), thực ra cũng một phần không phải tại phim vì trong truyện là đúng như thế (theo góc nhìn người thứ nhất của Katniss nên Katniss biết gì thì mình biết nấy và Katniss không biết gì mấy về các ứng viên khác, người đọc có cảm giác như trong đầu Katniss) nhưng theo tôi đó không phải là lý do đủ tốt để biện minh cho sự thiếu vắng việc phát triển nhân vật.

Bảng so sánh các tiểu thuyết về xã hội tương lai giả tưởng cho tầng lớp thanh thiếu niên trẻ.
Bảng so sánh các tiểu thuyết về xã hội tương lai giả tưởng cho tầng lớp thanh thiếu niên trẻ cho thấy cấu trúc đa phần khá giống nhau. Bạn có thể ấn vào hình để xem ảnh to hơn.

5/ Cảm xúc
Tôi yêu những bộ phim điên rồ, khác thường, vượt lên trên những lẽ thường nhàm chán, cốt truyện đặc sắc và nguyên gốc, hình ảnh tuyệt đẹp tráng lệ và điều tuyệt vời nhất là cảm xúc mà nó mang lại sau khi xem khi có thể khiến ta thao thao bất tuyệt nhiều ngày, thậm chí hàng tuần với những người thân thiết đến mức làm họ phát ngấy. Cảnh đấu trường trong Catching Fire đẹp hơn phần một nhiều nhưng vô cảm. Catching Fire cũng như những Iron Man 3, Man of Steel, Avengers… chúng không có nổi một phân cảnh khiến tôi cảm thấy xao xuyến, run rẩy, phấn khích hay phải thốt lên một câu cảm thán. Về điểm này thì The Hunger Games còn khá hơn khi có không ít phân cảnh tạo cảm xúc rất khá. Với một người từng nghiến ngấu hết bộ truyện trong vòng một tuần thì đây quả là một sự thất vọng cực kỳ lớn. Để mô tả bạo lực thì cách dễ dàng nhất là dùng máu me, bạo lực – nhưng đây rõ ràng không phải là cách tinh tế nhất. Do đó cái điều khiến bộ truyện bán chạy là Suzanne Collins đã thành công trong việc tạo ra một thế giới giả tưởng đầy bạo lực, suy đồi, xuống cấp mà không cần dùng đến máu me, bạo lực hay những hình ảnh gây sốc. Còn bộ phim với tham vọng tương tự đã thất bại với PG-13. Không phải vì cái xếp hạng độ tuổi mà vì các yếu tố khác của nó không đủ hay để không cần đến máu me, bạo lực.

Zeen is a next generation WordPress theme. It’s powerful, beautifully designed and comes with everything you need to engage your visitors and increase conversions.